Tham gia cuộc khai quật kho báu trong vườn nhà Hải cò có tất cả là bốn đứa.
Hải cò đương nhiên chiếm một suất, vì nó là chủ khu vườn. Con Tủn đương nhiên cũng chiếm một suất, vì thỉnh thoảng nó đóng vai vợ của Hải cò, tức là bà chủ của khu vườn.
Nhưng dĩ nhiên lý do quan trọng là bốn đứa tôi đều là bạn của nhau. Chúng tôi chia sẻ với nhau từ niềm vui nho nhỏ đến nỗi buồn lớn lao trong cuộc sống, từ lằn roi ba mẹ thường quất vô mông cho đến kho báu vô giá sắp tìm được.
Nhưng có một lý do quan trọng hơn hết thảy: nếu không hì hục xới tung khu vườn lên để tìm kho báu thì cuộc sống của chúng tôi sẽ buồn tẻ đến nhường nào. Ăn, ngủ và học, ba cái món chán ngắt đó hổng lẽ chúng tôi cứ phải chất lên cuộc đời mình và kéo lê chúng hết ngày này sang ngày khác như những con lừa thồ ngu ngốc.
Nếu không thể không thồ một thứ gì đó vào năm tám tuổi thì bọn tôi quyết định sẽ thồ kho báu.
Bốn đứa tôi đều thống nhất như thế và chọn một ngày nắng ráo chúng tôi bắt đầu đào xới khu vườn.
Công cuộc khai quật này được ba mẹ Hải cò ủng hộ hết sức nồng nhiệt. Họ nghĩ chúng tôi là những thợ làm vườn tự nguyện, nghĩa là những đứa trẻ ngoan.
Ba Hải cò xoa đầu tôi:
– Giỏi lắm, con trai.
Mẹ Hải cò rưng rưng khi nhìn con Tủn xách thùng tưới chạy tới chạy lui:
– Cẩn thận kẻo vấp té đó con.
Sau một tuần thì khu vườn không còn chỗ nào nguyên vẹn. Như những nhà khảo cổ, chúng tôi xới từng gốc cây, bụi cỏ, hết sức kỹ lưỡng. Nhưng kho báu vẫn chưa chịu hiện ra. Chúng tôi mỏi mòn chờ tiếng va của lưỡi cuốc vào nắp hòm gỗ, hoặc một vật gì cưng cứng như vàng hay kim cương nhưng hoài công. Thỉnh thoảng tay cuốc trên tay tôi và Hải cò cũng kêu đánh”cạch” một tiếng nhưng cái làm vang lên âm thanh hy vọng đó chỉ là những mảnh bát vỡ hay một thanh sắt han gỉ.
Sau mười ngày, đã xuất hiện trong vườn những hục hang và vài cái hố sâu hoắm.
Tới ngày thứ mười một, toàn bộ cây cối bắt đầu nói lời giã từ cuộc sống. Cành khô đi, lá rủ xuống và những trái mận quắt lại.
Buổi sáng ra thăm vườn, bàn tay ba thằng Hải cò không còn xoa đầu tôi nữa. Lông mày dựng ngược, tay chỉ ra cổng rào, ông quát lên bằng cái giọng người ta chỉ dùng để quát kẻ cắp:
– Cút!
Mẹ nó nhìn những cành mận tàn héo bằng vẻ mặt còn tàn héo hơn, trông bà vô cùng đau khổ và mất mát. Bà không quát tháo, mà rên lên:
– Ôi , lũ giết người!
Bọn tôi không định trở thành những kẻ sát nhân. Bọn tôi chỉ đi tìm kho báu nhưng có thể vì hăm hở tàn phá khu vườn mà bọn tôi khiến mẹ Hải cò lăn đùng ra chết cũng nên. Ý nghĩ u ám đó làm tôi run lên trong đầu.
Con Tủn và con Tí sún chắc cũng nghĩ như tôi nên trong nháy mắt ba đứa tôi đã biến như khói.
Chỉ có Hải cò là không chạy đi đâu được. Vì nó không biết chạy đi đâu.
Đối với một đứa bé, ngôi nhà rất quan trọng. Một đứa bé sống trong nhà mình cũng tự nhiên và máu thịt như sống trong bản thân mình. Nó không thể chạy khỏi nhà mình, vì điều đó sẽ làm nó đau đớn. Cũng như một con thỏ không thể chạy ra khỏi bộ da của mình.
Chỉ có người lớn mới làm được điều kỳ cục đó. Trong một số trường hợp, bản ngã có thể biến thành tha nhân. Lớn lên, tôi nghe các triết gia kháo nhau như vậy.
*************
Chap 9: Ai Có Biết Bây Giờ Là Mấy Giờ Rồi Không ?
Hôm sau thằng Hải cò vác bộ mặt tang thương đến tìm tôi.
Trông bộ tịch hầm hầm của nó, tôi đoán chắc nó sắp trút lên đầu tôi một cơn bão rủa xả về chuyện tôi đã xúi cả bọn phá tanh bành khu vườn nhà nó.
Nhưng khi thấy vẻ mặt te tua không kém của tôi, cơn giận trong lòng nó đột nhiên nguội ngắt.
– Mày cũng bị ăn đòn à?
Thằng Hải cò hỏi bằng giọng sung sướng của người đang gặp hoạn nạn chợt thấy kẻ khác gặp hoạn nạn hơn mình.
– Ờ. – Tôi rầu rĩ, tay mân mê gò má sưng vù – Tối hôm qua ba mày xồng xộc qua nhà tao.
Hải cò lo lắng nói, trông nó thấp thỏm như đang đứng trên ngọn núi lửa:
– Nếu vậy thì ba tao không chỉ qua mỗi nhà mày.
Như để chứng minh cho suy đoán của Hải cò, một chốc sau con Tủn và con Tí sún lếch thếch nối nhau tới, mặt mày nhàu nhò như quần áo vừa lấy vô từ dây phơi.
Tôi và Hải cò không hỏi, con Tủn và con Tí sún cũng không nói, nhưng nhìn bộ mặt héo úa của hai nhỏ bạn tôi biết tỏng chuyện gì vừa xảy ra.
– Tại sao người lớn lại phạt tụi mình nhỉ? – Tôi than thở bằng giọng của người suốt đời gặp toàn chuyện bất công – Bọn mình có làm gì sai đâu.
Hải cò làu bàu:
– Khu vườn nhà tao…
Thấy Hải cò chuẩn bị giở giọng bắt đền, tôi nhìn con Tí sún:
– Bọn mình đâu có cố ý, Tí há?
Con Tí sún nhanh nhẩu phụ họa:
– Ờ, bọn mình không cố ý.
Con Tủn lần này đứng về phía tôi, có lẽ vì nó trót là một trong những đồng-thủ-phạm trong vụ này:
– Chẳng ai muốn làm chết khu vườn cả.
Hải cò bất chợt nhận ra nó thuộc phe thiểu số, ngay cả con Tủn cũng ở bên kia chiến tuyến, liền thở đánh thượt, lặp lại như cái máy:
– Ờ, chẳng ai muốn làm chết khu vườn cả.
Không hiểu sao tôi vẫn tin rằng nếu chúng tôi không bị đuổi khỏi khu vườn, nếu công việc đào bới vẫn tiếp tục thì sớm muộn gì chúng tôi cũng sẽ tìm thấy kho báu. Dường như mọi đứa trẻ đều tin rằng có một kho báu nào đó được cất giấu ở một nơi nào đó trên thế gian này đang chờ đợi tụi nó.
Thông thường, nguời lớn không phủ nhận niềm tin đó của trẻ con. “ Kho báu à? Có đấy!”, người lớn mỉm cười dễ dãi, nhưng ngay sau đó họ lại bảo kho báu của con người là tri thức. Đại khái họ thích nói với con cái( như tôi vẫn thích nói với con tôi): “ Con ơi, con phải chăm học. Tri thức là một kho báu vô giá. Tri thức là chìa khóa của cuộc sống. Có nó, con có thể mở được mọi cánh cửa”. Trong trường hợp này có lẽ người lớn nói đúng nhưng trong mắt một đứa trẻ tám tuổi, đã là kho báu thì dứt khoát phải có hình thù của một hòm vàng hay bét nhất là một thỏi kim cương.
– Con người ai chẳng thích đi tìm kho báu – Tôi sụt sịt nói – Ba mẹ mình cũng thế thôi. Thế mà mình lại bị phạt.
Như như bị khoét vào nỗi đau tích tụ lâu ngày, con Tủn ấm ức tuôn trào:
– Bọn mình luôn luôn bị phạt. Trong khi ba mẹ mình thì chẳng bao giờ bị phạt.
Hải cò đột ngột bị sự xúc động nhấn chìm. Nó hài tội mẹ nó:
– Mẹ mình đã năm lần đánh mất chìa khóa xe, mười hai lần đánh mất chìa khóa tủ mà chẳng ai nói gì.
Con Tí sún không có mẹ. Nó chỉ có ba. Nó thút thít:
– Ba mình hứa với mình là sẽ bỏ rượu. Nhưng ba mình có giữ lời đâu.
Tôi đế ngay:
– Thế mà vẫn không bị đánh đòn roi nào.
Bị cuốn theo dòng thác cảm xúc mỗi lúc một mãnh liệt, bốn đứa tôi thi nhau kể tội ba mẹ. trong vòng vài phút, bọn tôi kinh ngạc nhận ra ba mẹ của bọn tôi khuyết điểm đầy rẫy, có lẽ nhiều hơn bọn tôi cả chục lần. Sau này tôi vẫn nói với con tôi(như ba mẹ tôi vẫn nói với tôi): Con cái không được phán xét ba mẹ, con à. Và thú thật khi nói như vậy tôi cũng không rõ tôi đang dạy con tôi cách thức làm người hay vì tôi sợ nếu tôi cho phép nó phán xét thì nó sẽ thấy người đáng bị quỳ gối nhiều nhất trong nhà là tôi chứ không phải nó. Khỉ thật!
Thực tế thì sống trên đời ai mà chẳng có khuyết điểm: Trong khi bọn trẻ con cố che giấu khuyết điểm của mình trong mắt người lớn thì người lớn cũng tìm mọi cách giấu giếm khuyết điểm của mình trước mắt trẻ con.
Nếu làm một cuộc so sánh thì rõ ràng trẻ con làm điều đó tốt hơn và khéo léo hơn, đơn giản là trẻ con sợ bị phạt. Người lớn che giấu khuyết điểm kém hơn, không phải vì vụng về hơn, mà do họ bất chấp. Trẻ con không thể phạt họ và điều đó gieo vào đầu họ cái ý nghĩ tai hại rằng phạm khuyết điểm là đặc quyền của người lớn. Một đứa trẻ vô tình đánh một phát trung tiện giữa bàn ăn sẽ bị người lớn bợp tai ngay tức khắc nhưng nếu một người lớn cũng làm như vậy thì đứa trẻ (và những người chung quanh) chỉ biết cười xòa, trong khi thực ra cả hai đều đáng phê phán như nhau và nếu phải tha thứ thì đứa trẻ đáng được tha thứ hơn.
Trẻ con không những thường xuyên bị phạt(bởi với một đứa trẻ thì có hàng trăm thứ lỗi lầm để mắc phải, từ chuyện không thuộc bài, làm bẩn tập vở đến chuyện mải chơi hay quên ngủ trưa), mà còn thường xuyên bị phạt oan.
Người lớn thường thích cường điệu nỗi cô đơn trong cuộc sống, thích ca cẩm rằng biết tìm đâu cho ra một người tri kỷ trong khi chính trẻ con mới cảm nhận điều đó sâu sắc hơn ai hết. Đứa trẻ trót lỡ tay đánh vỡ một cái tách hay cái lọ hoa, trong đa số các trường hợp đều bị cả ba lẫn mẹ xúm vào tấn công, thêm sự phụ họa của anh chị nếu đứa trẻ xui xẻo đó không những có anh mà còn có cả chị. Đứa trẻ sẽ thấy mình bị hiếp đáp, và chắc chắn sẽ thấy oan ức nếu thủ phạm làm vỡ lọ hoa là con mèo hậu đậu nhưng nó không đủ thì giờ để phân bua trước cơn giận dữ của người lớn, nhưng ngay cả khi nó có cơ hội nói lên sự thật giữa những tiếng thút thít thì cũng chẳng ai tin nó.
Có lẽ trên cõi đời này không có đứa trẻ nào chưa từng oán trách ba mẹ.
Sau này khi đã là một ông bố, tôi luôn thận trọng khi quở trách con cái để tránh xảy ra những vụ án oan nhưng thú thật xóa nhòa được lằn ranh giữa trẻ con và người lớn cũng khó ngang với việc xóa bỏ ranh giới giàu nghèo trong xã hội. Về tâm lý, người lớn luôn cho mình đứng về phía chân lý, nếu xảy ra một sai lầm nào đó thì phần nỗi đương nhiên thuộc về trẻ con.
Tôi đã cảm nhận được sự bất công đó, ngay vào năm tám tuổi, lúc tôi tiếp tục mân mê đôi gò má rát bỏng. Và tôi tin rằng cả khối trẻ con trên đời này cũng đang nghĩ rằng không có ai hiểu mình, kể cả những người thân thiết nhất và đó là tâm trạng thật sấu khổ, người lớn chưa chắc đã sánh bằng.
Ngay sau khi kể tội các bậc làm cha làm mẹ, chúng tôi cảm thấy cần phải thành lập một phiên tòa.
Những ngày hôm trước, nếu bốn đứa tôi hăng hái giành nhau làm ba mẹ thì bây giờ lại tranh nhau đến khô cả cổ để được làm con cái.
Phải tranh giành thôi, vì đây là phiên tòa vô tiền khoáng hậu: trẻ con xử người lớn!
Rốt cuộc, sau một hồi giằng co, Hải cò và con Tủn giật được chiếc ghế quan tòa.
Tôi và con Tí sún đành phải đóng vai bị cáo.
Hải cò nện lọ mực xuống mặt bàn đánh “cốp”, mặt khó đăm đăm:
– Ba đi đâu mà giờ này mới về? Ba có biết bây giờ là mấy giờ rồi không?
Tôi lí nhí:
– Ờ, ba gặp mấy người bạn… vui miệng làm mấy ly…
– Tuần trước ba say rượu, ủi xe vô gốc cây, phải đưa đi cấp cứu, ba hổng nhớ hả?
Tuần trước ba thằng Hải cò có say rượu ủi vô gốc cây và tỉnh dậy ở bệnh viện với cái đầu băng trắng thiệt. Bữa đó ai cũng tưởng ba nó tiêu rồi.
Tôi tặc lưỡi:
– Nhớ chứ sao không.
– Nhớ sao ba còn tiếp tục say rượu? Rủi ba có mệnh hệ gì thì vợ con bỏ cho ai nuôi? – Hải cò quát lớn nhưng giọng nó chuyển qua nghèn nghẹt như ai bị bóp mũi, chắc nó chợt hình dung đến cảnh chẳng may nó mồi côi cha.
Tôi gục đầu xuống:
– Ba biết lỗi rồi.
Hải cò nhìn tôi(chắc nó nghĩ nó đang nhìn ba nó nên mắt nó ngân ngấn nước), giọng dài ra:
– Câu này nghe quen quá, ba.
– Con yên tâm đi. Đây là lần cuối cùng ba hứa với con. – Tôi nói, giọng cảm động, vì tôi cũng đang rùng mình tưởng tượng đến cảnh ba thằng Hải cò nằm bẹp trên chiếc băng-ca không bao giờ ngồi dậy nữa.
Hết ba tới mẹ. Con Tủn nhìn con Tí sún bằng ánh mắt ngán ngẩm:
– Thiệt tình con không biết nói sao nữa, mẹ à.
Con Tí sún đổi chân hai, ba lần, mặt lộ vẻ bồn chồn, như thể nó biết nó tội lỗi đầy mình.
Con Tủn đột nhiên nức nở:
– Mẹ không bao giờ tôn trọng con hết. Hu hu hu.
Con Tí sún mặt mày xanh lè:
– Nín đi con. Con nói sao ấy chứ. Mẹ luôn luôn thương con mà.
– Con nói mẹ không tôn trọng con chứ đâu có nói mẹ không thương con.
Trước ánh mắt ngơ ngác của con Tí sún, con Tủn ấm ức dằn từng tiếng:
– Thương là khác. Còn tôn trọng là khác.
Con Tủn bắt đầu kể tội mẹ nó:
– Hôm trước đi mua áo, mẹ hỏi con thích chiếc áo màu xanh hay chiếc áo màu vàng. Con nói con thích áo màu vàng. Tưởng sao, mẹ nói: Thôi, mua áo màu xanh đi con. Mặc màu xanh cho mát.
Con Tí sún nhìn chiếc áo màu xanh con Tủn đang mặc, cố nín cười:
– Ờ… ờ…
– Xưa nay chuyện gì cũng vậy. – Con Tủn tiếp tục thút thít – Mẹ hỏi ý con, nhưng rốt cuộc mẹ đều làm theo ý mẹ.
– Ờ.. ờ…
– “Ờ” gì mà”ờ” – Con Tủn giận dỗi – Nếu mẹ không tôn trọng con thì mẹ còn hỏi ý kiến của con để làm gì. Từ nay trở đi, mẹ thích gì mẹ cứ làm, đừng bao giờ hỏi con nữa.
– Mẹ xin lỗi…
Con Tủn vừa dứt lời, thằng Hải cò đã nôn nóng tiếp theo ngay, như thể đang chờ sẵn:
– Mẹ còn cái tật nói dai nữa.
Con Tí sún tròn xoe mắt:
– Mẹ mà nói dai á?
– Chứ còn gì nữa. – Hải cò nhăn nhó – Năm ngoái con lỡ làm mất chiếc xe đạp, thế mà mẹ cứ lôi chuyện đó ra nói hoài. Hôm qua mẹ vẫn còn nhắc trong bữa ăn, cứ như thể con làm mất cả trăm chiếc xe ấy…
– Ủa, mẹ có nhắc hả con? Làm gì có!
– Thế ai vẫn hay nói câu” Xe đạp mà nó còn làm mất được thì cái gì mà nó không làm mất”? Đó không phải là câu nói ưa thích nhất trong năm của mẹ sao?
Tôi thở một hơi dài khi nghe thằng Hải cò tố khổ mẹ nó. Ở trên bàn công tố viên, con Tủn cũng sụp mặt xuống. Rõ ràng cái tật của mẹ Hải cò cũng là cái tật của mẹ tôi và mẹ con Tủn.Mẹ con Tí sún không mắc phải cái tật đó chẳng qua do bà mất sớm.
Phiên tòa hôm đó kéo dài khá lâu và kết thúc trong niềm hân hoan của cả bốn đứa tôi. Chúng tôi cảm thấy lấy lại được sự công bằng, đã xả được bao nhiêu là ấm ức, đã tưởng tượng ra được cảnh người lớn chân thành xin lỗi trẻ con về bao nhiêu là khuyết điểm mà nếu trẻ con không vạch ra thì người lớn không bao giờ nhận thấy.
Hôm đó, chúng tôi sống như trong mơ – một giấc mơ có lẽ mọi trẻ con trên trái đất đều ao ước.
Chỉ tiếc là giấc mơ đó phù du quá. Từ phiên tòa trở về, tôi vừa đun đầu vô nhà, ba tôi đã đón bằng một tiếng quát:
– Con đi đâu mà giờ này mới về? Con có biết bây giờ là mấy giờ rồi không?
Oái oăm thay, công tố viên Hải cò vừa quát tôi một giống y như thế, chỉ khác một chút ở cách dung các đại từ nhân xưng:
– Ba đi đâu mà giờ này mới về? Ba có biết bây giờ là mấy giờ rồi không?
***************
Chap 10: Và Tôi Đã Chìm
Hải cò và cu Tủn bây giờ phủ nhận tất tần tật những điều đó. Cái phiên tòa “phạm thượng” kia dĩ nhiên tụi nó càng cố quên đi. Nhưng dẫu sao hồi tám tuổi, tôi và con Tí sún chắc chắn không thể xoay chuyển thế giới theo ý mình nếu không có sự tham gia nhiệt tình của hai đứa nó. Bây giờ ngồi lần giở lại những ký ức như lật từng trang nhật ký, tôi vẫn bắt gặp một cảm giác bồi hồi khi nhớ đến những gì đã xảy ra trong những năm tháng đó.
Sau này, khi đã là một người lớn hẳn hoi, tôi luôn cảm thấy chột dạ khi có một đứa bé nhìn tôi chằm chằm, cái cảm giác của tôi lúc đó là cảm giác nhột nhạt của người bước ra phố mà quên cái nút áo hay nút quần.
Thực ra thì tư cách cũng cần cài nút, nhưng lúc quên cài thì chúng ta thường không thấy cảm giác nhột nhạt. Nhiều người lớn có khuynh hướng coi trọng sự ngay ngắn của quần áo hơn là sự ngay ngắn của tư cách. Bởi quần áo luộm thuộm dễ dàng bị người khác phát hiện còn sự luộm thuộm của tư cách là cái gì đó khó phát hiện hơn và khi bị phát hiện thì lại có vô số lý do để bào chữa.
Nhưng người lớn đánh lừa người lớn dễ hơn là đánh lừa trẻ con. Bởi người lớn tiếp nhận thế giới bằng óc phân tích, còn trẻ con cảm nhận thế giới bằng trực giác.
Xem cái cách thằng Hải cò và con Tủn đối xử với tuổi thơ của tụi nó thì biết. Những gì trực giác thời ấu thơ mách bảo là hay đẹp thì bây giờ tụi nó dung lý trí để sổ toẹt hết. Cứ như thể trực giác là cây bút xanh của học trò, còn lý trí là cây bút đỏ của thầy cô.
Tụi nó phủi kỷ niệm như phủi bụi, nhằm phi tang quá khứ.
Nhưng đó là thứ bụi kim cương.
Tôi đã gom những hạt bụi óng ánh đó để đúc thành bản tham luận của tôi. À không, bây giờ thì những gì tôi viết ra không phải để trình bày trong cuộc hội thảo Trẻ em như một thế giới nữa. Con Tí sún đã bày cách cho tôi: Tham luận trong một hội thảo khoa học đương nhiên buộc phải đề cao tính xác thực, đó sẽ là lý do để Hải cò và con Tủn phản đối thậm chí kiện cáo về những gì tôi mô tả về tụi nó, nhưng nếu đây là một cuốn tiểu thuyết thì quyền hư cấu của tác giả sẽ đảm bảo cho tôi tránh xa những kiện tụng lằng nhằng. Thậm chí nếu cần tôi sẽ đế một dòng chữ ngay trang đầu cuốn sách” Tất cả những nhân vật và tình tiết trong cuốn sách này đều do tác giả tưởng tượng ra, nếu có sự trùng hợp ngẫu nhiên thì đó là chuyện ngoài ý muốn, tác giả không chịu trách nhiệm”. Tôi đã từng thấy những cuốn sách ghi như thế, và thật mừng là con Tí sún đã ân cần nhắc cho tôi nhớ điều đó.
Từ khi tìm ra lối thoát, tôi không còn ngần ngừ khi nhìn thấy số phone của ông giám đốc Hải cò và bà hiệu trưởng Tủn hiện ra trên màn hình điện thoại của tôi nữa.
Tôi hét vào ống nói:
– Yên tâm, yên tâm! Sẽ không có bất cứ một bản tham luận nào!
– Yên chí, yên chí! Ủy ban UNESCO của Liên hiệp quốc sẽ không biết ở Việt Nam từng có một bé trai rủ một bé gái lên giường một chút chăng từ hồi tám tuổi, họ cũng không biết từng có một phiên tòa kể tội ba mẹ nào hết.
Tôi tắt máy, tặc lưỡi: Ủy ban UNESCO không biết nhưng khi cuốn sách này in ra thì cả thế giới đều biết.
Ủa nhưng tại sao lại phải giấu khi mà những gì đã xảy ra với bọn nhóc chúng tôi chắc chắn không phải là điều gì bí mật với trẻ con(và cả với những ai từng là trẻ con) trên toàn thế giới, vì tất cả những đứa trẻ chân chính bao giờ cũng muốn làm những điều tương tự để cuộc sống trở nên lấp lánh hơn và giàu ý nghĩa hơn.
Chắc chắn các bậc làm cha làm mẹ không biết lũ con cái đã giở những trò gì sau lưng họ, mặc dù có thể chính là những trò mà các bậc làm cha làm mẹ khi còn bé cũng đã từng làm sau lưng các bậc làm ông làm bà đó thôi.
Thực lòng mà nói, khi tôi quyết định phanh phui những chuyện này ra, những người mà tôi sợ nhất không hẳn là Hải cò và con Tủn, mà chính là ba mẹ tôi, cũng như ba mẹ tụi bạn tôi.
Trong mắt các bậc làm cha làm mẹ khả kính đó, xưa nay chúng tôi vẫn là những đứa con ngoan, nhưng bây giờ khi đọc cuốn sách này họ chợt nhận ra chúng tôi không ngoan như họ tưởng, mặc dù rốt cuộc những đứa con không ngoan đó vẫn thành đạt trong xã hội, vẫn thành ông giám đốc này, bà hiệu trưởng kia, ông nhà văn nọ…
Và tôi không chỉ sợ ba mẹ tôi, ba mẹ thằng Hải cò, ba mẹ con Tủn và ba con Tí sún. Mà sợ tất cả các bậc làm cha làm mẹ khác trên đời. Đọc xong cuốn sách này, họ sẽ giật nẩy mình, từ đó bắt đầu nhìn con cái bằng ánh mắt khắt khe hơn và dĩ nhiên là nhiều ngờ vực hơn cứ như thể đã là con cái thì thế nào cũng sắp sửa làm điều gì dó hết sức bậy bạ.
Thực ra thì mọi đứa trẻ đều hồn nhiên. Chúng tôi lỡ tay phá hỏng khu vườn nhà thằng Hải cò chẳng qua là do ngây ngô. Lúc đó chúng tôi vẫn tin vào điều chúng tôi làm, thậm chí đêm đêm tôi vẫn nằm mơ thấy những hòm vàng chôn dưới những góc mận sau nhà thằng Hải cò.
Sau này, khi đã là người lớn thì tôi thất vọng khi thấy người lớn không có được thái độ trong sang như lúc họ còn trẻ con. Người lớn bảo trẻ con chúng tôi tri thức mới là kho báu thực sự, nhưng nhiều người trong số họ không hề muốn chinh phục tri thức mà chỉ thích săn tìm bằng cấp. Người lớn cũng nói như vậy về tình yêu và đối xử với tình yêu cũng với cách thức thô bạo như họ đã đối xử với tri thức.
Bây giờ con tôi cũng hay hỏi tôi về tình yêu. Tự nhiên tôi nhớ đến con Tủn và nói:
– Tình yêu là một cuộc rượt bắt nhưng trong nhiều trương hợp ta cố rượt theo người này nhưng rốt cuộc lại bắt được người khác, con à.
Con tôi may mắn hơn nhiều người. Nó đã bắt đúng người mà nó rượt ( hay rượt nó). Thế nhưng nó vẫn lo lắng:
– Người ta bảo hôn nhân là mồ chôn của tình yêu có đúng không hả ba?
Tôi nghĩ đến cuộc hôn nhân êm đẹp của con Tí sún, nhún vai đáp:
– Hôn nhân không chôn ai hết. Chỉ có người chồng và người vợ chôn lẫn nhau nếu họ muốn như vậy.
– Thế tại sao…
Tôi cắt ngang câu hỏi của con tôi:
– Con ơi, những cặp vợ chồng tan vỡ là những người nghĩ rằng hôn nhân là điểm kết thúc của tình yêu trong khi thực ra nó là điểm bắt đầu.
Tôi nhìn vẻ mặt ngơ ngác của con tôi, cố tìm một cách diễn đạt dễ hiểu:
– Trước khi cưới nhau, con người ta chỉ tập yêu nhưng chưa thực sự biết yêu. Yêu là thứ con người ta cần phải học và cần phải nỗ lực suốt đời, con à. Hôn nhân sẽ dạy người ta yêu. Tất nhien là có những người không học nổi, hậu quả là họ bị đuổi khỏi hôn nhân như những học sinh lười bị đuổi ra khỏi trường.
Mắt con tôi sáng lên:
– Học yêu cũng giống như học bơi vậy hả ba? Không học người ta vẫn bơi được, nhưng bơi theo kiểu con cún. Chỉ có học đàng hoàng, người ta mới biết bơi sải, bơi ngửa, bơi ếch và bơi bướm.
Tôi cười, nhớ lại cảnh tôi từng nhào xuống sông hồi tám tuổi:
– Và những ai lười sẽ bị chìm.
– o O o –